Ngũ quan trong tướng mặt
Vị trí Ngũ quan
Ngũ quan là năm bộ phận trọng yếu trên khuôn mặt:
Hai lông mày gọi là Bảo thọ quan.
Cặp mắt gọi là Giám sát quan.
Hai tại gọi là Thám thính quan.
Mũi là Thẩm biện quan.
Miệng là Xuất nạp quan.
Cổ tướng kinh bàn về Ngũ quan có câu: “Trời lấy Ngũ tinh để biểu lộ hình thể; đất lấy năm núi để định khu vực; người thì dựa vào Ngũ quan để định quý, tiện, bần, phú”. Sách “Nhân luân đại thống phú” bàn về Ngũ quan có câu: “Nhất quan thánh, thập niên quý hiển”. Như vậy, đủ rõ trong tướng học, Ngũ quan đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Điều kiện tốt của Ngũ quan
Đối với phép quan sát Ngũ quan, tướng học có câu sau đây đủ để tóm tắt những điều kiện tổng quát của kẻ có Ngũ quan toàn hảo: “Ngũ quan cần phải minh lượng và đoan chính về hình dạng”.
Từ ngữ “Minh lượng bao gồm:
Thanh khiết.
Sáng sủa.
Có thành khí.
Trang nhã.
Còn “Đoan chính” có nghĩa là:
Ngay thẳng.
Cân xứng và lớn nhỏ thích nghi.
Hình thể rõ ràng (chỗ nào cần đây thì đầy, mỏng thì phải mỏng đen trắng phân biệt… tùy theo mắt, tai, mũi, miệng hay lông mày).
Tứ đậu trong tướng mặt
Vị trí của Tứ đậu
Đậu là một từ ngữ Trung Hoa chỉ mương nước, chỉ có nước chảy. Tứ đậu là bốn dòng nước chảy bao gồm: Giang, Hà, Hoài, Tế. Cả bốn chữ trong ngôn ngữ Trung Hoa đều có nghĩa chung là dòng sông.
Cũng vẫn cái lối mượn thiên nhiên để ví vào con người cho dễ hiểu nên người Tàu, trong lĩnh vực diện tướng học đã địa lý hóa bốn bộ phận: tai, miệng, mắt, mũi thành ra Giang, Hà, Hoài, Tế.
Mũi có tên riêng là Tế đậu.
Mắt có tên riêng là Hoài đậu.
Miệng có tên riêng là Hà đậu.
Tai có tên riêng là Giang đậu.
Tại sao bốn bộ phận trên được ví như bốn dòng nước? Sách xưa đã giải thích lối hình dung này như sau:
Nước lúc nào cũng chảy về biển. Bộ óc được ví như biển. Bộ óc là nơi tập trung các tiếp thu của tai, mắt, mũi, miệng như biển gồm nước của bốn dòng sông, cho nên bộ óc được gọi là não hải; còn mắt, mũi, tai, miệng được gọi là Tứ đậu.
Điều kiện tốt của Tứ đậu
Nước muốn lưu thông dễ dàng thì lòng sông phải sâu, mặt sông phải rộng. Do đó, tướng học đòi hỏi Tứ đâu phải có những điều kiện sau:
Hà đậu (miệng) phải vuông vức, lăng giác rõ ràng, lớn, rộng. Nếu như miệng quá hẹp, môi quá mỏng, ví như dòng sông nông cạn, nước khó thông và chảy không tới biển cho nên vãn niên phúc thọ hư ảo.
Giang đậu (tai) cần rộng và sâu, nghĩa là lỗ tai phải sâu và rộng, hình thể chắc chắn, đầy đặn, chủ về thông minh, gia nghiệp ổn định.
Hoài đậu (mắt) cần phải sâu dài, ánh mắt trong sáng, hình thể thon dài, tròng đen, tròng trắng phân minh, đồng tử linh động, chủ về thông minh, quý hiếm.
Tế đậu (mũi) thông suốt, tức là lỗ mũi phải kín đáo, đầu mũi phải đầy, sống mũi phải thẳng, không cong, không lồi lõm, hai cánh mũi phải đầy, nở và cân xứng thì cuộc đời sung túc, không lo đói rách.
Ở đây có một điểm rất trọng yếu cần phải lưu ý, đó là Nhân trung (phần lõm sâu chạy dài phía dưới chỏm mũi tới chính giữa môi trên), vì Nhân trung được coi là mạch chính của Tứ đậu. Nếu Tứ đậu đều minh hiền (tốt và rõ ràng) mà Nhân trung hẹp, mờ, khuất, bị vạch ngang làm cho mất hẳn mỹ quan hoặc trên rộng dưới hẹp, trên sâu dưới nông, đều có tác dụng làm nghẽn tắc Tứ đậu khiến dòng nước không lưu thông dễ dàng, cái đẹp của Tứ đậu vì thế bị giảm thiểu. Cho nên người ta đòi hỏi Nhân trung phải sâu, trên vừa phải, dưới rộng và rõ ràng, dài.
Ngũ nhạc trong tướng mặt
Vị trí ngũ nhạc
Ngũ nhạc là năm dãy núi lớn trong địa lý học Cổ điển Trung Hoa. Người Trung Quốc có thói quen so sánh mặt người với mặt đất của Trung Nguyên nên đã địa lý hóa các bộ vịnổi bật nhất của khuôn mặt thành năm danh hiệu của năm dãy núi chính để rồi căn cứ vào hình dáng, vị thế liên hoàn của chúng mà đoán tương lai, quá khứ của con người.
Trán tượng trưng cho dãy núi phía Nam nên gọi là Nam nhạc (tên riêng là Hành Sơn).
Cằm tượng trưng cho dãy núi phía Bắc nên gọi là Bắc nhạc (tên riêng là Hằng Sơn).
Quyền trái tượng trưng cho dãy núi phía Đông nên gọi là Đông nhạc (tên riêng là Thái Sơn).
Quyền phải tượng trưng cho dãy núi phía Tây nên gọi là Tây nhạc (tên riêng là Hoa Son).
Mũi tượng trưng cho dãy núi chính ở trung ương nên mệnh danh là Trung nhạc (tên riêng là Tung Sơn).
Điều kiện tốt của Ngũ nhạc
Điều kiện tối thiểu của Ngũ nhạc là phải có sự triều củng (đôi khi gọi là triều quy) nghĩa là quần tụ theo một thế ỷ dốc liên hoàn, quy về một điểm quan trọng nhất. Theo quan niệm của khoa địa lý phong thủy Á Đông, sự triều củng khiến cho long mạch (nguyên khí tinh hoa của tạo hóa trong một khu vực nào đó) có thể phát huy được tất cả uy lực tốt đẹp. Trong Ngũ nhạc, Trung nhạc là chủ yếu, là tâm điểm của cả hệ thống nên khí thế của nó phải bao trùm tất cả các nhạc khác. Theo quy
Xem nhanh tướng mệnh nữ =định của tướng thuật, mũi là trung tâm của khuôn mặt, lại tượng trưng cho phần nhân sự trong tam tài nên được gọi là long mạch.
Về phương diện xem tướng, Ngũ nhạc tối kỵ ba khuyết điểm sau:
Quân sơn vô chủ (Bốn núi không có sự triều củng đối với trung ương). Nói khác đi, Tung nhạc bị khuyết, hãm hay quá thấp, quá nhỏ so với các nhạc khác.
Cô phong vô viện (Ngọn chính giữa quá tốt, nổi bật lên một cách trơ trọi không được sự phát triển của các ngọn khác hỗ trợ). Điều này chủ yếu là mũi. Mũi tốt mà trán, cằm, Lưỡng quyền thuyết hãm thì coi là không đáng kể.
Hữu viện bất tiếp (Có vẻ có sự hỗ trợ của các ngọn khác nhưng xét kỹ thì lại không có). Điều này có nghĩa là một hay nhiều ngọn núi chung quanh bị lệch hay khuyết khiến cho toàn thể liên hoàn hô ứng của Ngũ ngạc bị đổ vỡ.
Phạm vào ba khuyết điểm nói trên, sách tướng mệnh danh là “long mạch” không có thế, khiến cho “long mạch” không phát huy được. Đôi khi, không những “long mạch” không phát huy mà còn có thể trở thành xấu nữa.
Những yếu tố bù trừ
Phép luận trong phân tướng người thành hai loại chính là Nam và Bắc tướng. Nam tướng là tướng người sinh trưởng ở miền Nam Trung Hoa. Tại đây, khí hậu chính là nóng, có đặc điểm chính là Hỏa vượng. Nếu Hỏa tinh (trán) hay nói theo từ ngữ ở đây là Nam nhạc là bộ vị chủ yếu của người phương Nam được phát triển hợp tiêu chuẩn thì dẫu các ngọn khác có hơi thiếu tiêu chuẩn đôi chút (miễn là không khuyết hãm, đặc biệt là Trung nhạc) thì cũng có thể lấy bộ vị chính yếu toàn hảo làm vật hóa giải.
Nếu trán của người phương Nam không bị thương tổn thì tinh thần và bản thân sự nghiệp hanh thông vượng thịnh. Theo nguyên tắc Ngũ hành tương sinh thì Hỏa sinh Thổ (Hỏa chỉ trán, Thổ chỉ mũi) nên nếu Tam nhạc đắc thế thì dù Trung nhạc không hoàn toàn tốt đẹp cũng có thế lướt qua được. Tuy nhiên sự đắc cách của Nam nhạc chế phần lớn hóa giải các điều bất thường về vận mệnh do mũi gây ra mà thôi, nó không hóa giải được tâm địa. Nói khác đi kẻ sinh ở phương Nam có trán tốt và mũi xấu vì lệch, thấp thì vận mệnh vẫn có thể khá nhưng tâm địa giữ nguyên những khuyết điểm do mũi hoặc các bộ vị khác thuộc Ngũ nhạc gây ra.
Đối với người phương Bắc, bộ vị chủ yếu là Địa các. Vì phương Bắc là chính thổ nên tối kỵ Thổ tinh (mũi) khuyết hãm. Do đó đối với họ khí, mạch của Bắc nhạc liên hệ chặt chẽ với khí mạch của Trung nhạc. Trung nhạc khuất khúc, nghiêng lệch thì Bắc nhạc có tốt cũng bị thắng giáng thất thường về vận mệnh.
Sự tổng hợp tốt nhất trong cổ tướng học thực nghiệm là cách “Thủy, Hóa thông minh” tức là Bắc phương nhân, ngoài bản vị tốt đẹp toàn hảo, còn được Nam nhạc toàn hảo cộng thêm Ngũ quan đoan chính, Nam phương nhân, ngoài Nam nhạc toàn hảo, Ngũ quan thanh tú còn được Địa các nảy nở vuông vức và triều củng.
Đông và Tây nhạc (hai quyền) cũng cần phải phối hợp tương xứng với Trung nhạc có thế. Đông và Tây nhạc (đối với đàn ông) cần phải cao nở và mạnh mẽ. Tối kỵ nhỏ, nhọn và lộ xương, lẹm gốc hoặc cao hơn các bộ vị của Trung nhạc hoặc chỉ được lượng mà hỏng về phẩm.
Tóm lại, Ngũ nhạc chỉ đắc thế khi có sự tương phối, triều củng, minh lãng về cả phẩm lẫn lượng, đồng thời Ngũ nhạc còn phải được Tứ đậu (mắt, mũi, tai, miệng) toàn hảo thì mới có thành đại dụng được. Trong Ngũ nhạc nếu có một ngọn không hợp cách thì dẫu Ngũ quan có tốt cũng khó đại phát.
Sự khuyết hãm của Ngũ nhạc
Ngoài ba khuyết điểm căn bản kể trên chung cho Ngũ nhạc (quân sơn vô chủ, CÔ phong vô viện, hữu viện bất tiếp) mỗi Nhạc còn có những khuyết điểm sau đây:
Nam nhạc: Bị coi là khuyết hãm khi mí tóc lởm chởm, tóc mọc quá thấp khiến trán thành thấp, tóc mọc che lấp hai bên khiến trán thành hẹp, trán có loạn văn như dấu vết bò, xương đầu không đắc cách, xương trán lồi, Ân đường có sát khí, trán có vết hằn một cách bất thường.
Trung nhạc: Bị coi là khuyết hãm khi Son căn bị gãy, Có hằn, mỏng manh, Có nốt ruồi, sống mũi bị thương tích thành sẹo, lệch, lồi lên lõm xuống, lỗ mũi bị lộ và hướng lên trên, mũi nhỏ và ngắn, hai cánh mũi không nổi cao.
Bị coi là khuyết hãm tương đối khi chỉ có mũi rất cao, rất tốt mà bốn bộ phận khác thuộc Ngũ nhạc quá thường (Cô phong vô viện) chủ về nghèo khổ phá tán, thành bại thất thường. Và
Đông và Tây nhạc: Bị coi là hãm khi hai quyền bị lõm xuống, nhỏ và nhọn, trơ xương, có nhiều vết sẹo hay nốt ruồi tàn nhang rõ rệt, quyền thấp hoặc có diện tích nhỏ mà không có khí thế (không có xương ăn thông sang khu vực tai), Lưỡng quyền cao thấp không đều…
Bắc nhạc: Bị coi là hãm khi xương quai hàm nhọn, hẹp, cằm lệch, miệng túm, môi dày mỏng không đều, không râu ria, có các nốt ruồi xấu, râu vàng và khô, Nhân trung nông cạn hoặc lệch và mép miệng trề xuống…
Nếu mỗi Nhạc tránh được khuyết điểm cơ hữu kể trên và nếu cả năm nhạc triều củng thì gọi là Ngũ nhạc đắc cách.
Tam đình trong tướng mặt
Vị trí của Tam đình
Tướng học Á Đông chia khuôn mặt thành ba phần: Thượng đình, Trung đình và Hạ đình.
Thượng đình: Từ chân tóc đến khoảng giữ hai đầu lông mày. Trong các bộ vị của Thượng đình quan trọng nhất là trán.
Trung đình: Từ khoảng giữa hai đầu lông mày đến dưới hai cánh mũi. Các bộ phận quan trọng của Trung đình là: mũi, cặp mắt, Lưỡng quyền, hai tai và hai lông mày. Nhưng trong các sách tường, người ta chú trọng nhiều nhất là bộ phận trung ương là mũi.
Hạ đình: Phần còn lại của khuôn mặt tức là phần từ phía dưới hai cánh mũi đến cằm.
Ý nghĩa của Tam đình
Tạm đình có hai ý nghĩa tổng quát về vận mệnh và về khả năng.
Về mặt vận mệnh:
Theo quan niệm siêu hình của người xưa thì Tam đình tượng trưng cho tam tài (ba thể trọng yếu nhất trong vạn vật) là thiện, địa, nhân.
Trán thuộc Thiên đình tượng trưng cho trời, trời càng cao, rộng, tươi càng tốt cho nên người ta lấy trán cao, rộng và tươi làm quý. Nói chung phần đông kẻ nào Có ba điều kiện này thuộc loại quý tướng, SƠ vận suôn sẻ.
Bộ vị quan trọng nhất của Trung đình là mũi, tượng trưng cho người. Cơ cấu con người có rộng, dài và cân xứng, mới tốt, nên mũi cần phải ngay thẳng hoặc tròn trịa, và phải đều đặn cân xứng.
Kẻ hội đủ điều kiện trên được gọi là “hữu nhân giả thọ” có triển vọng sống lâu, trung vận gặp nhiều hanh thông hơn người thường.
Cuối cùng là phần Hạ đình tượng trưng cho đất và bộ vị quan trọng nhất là cằm. Vì đất cần phải đầy đặn, vuông vức mới tốt nên quan niệm cổ điển đòi hỏi cằm phải vuông, đầy, chủ về hậu vận sung túc. Nói chung, trong quan điểm tướng học Á Đông, Thượng đình dài mà nảy nở hoặc vuông mà rộng là quý hiển; Trung đình mà ngay thẳng, cao ráo và dáng vẻ thanh tú là trường thọ; Hạ đình bằng phẳng đầy đặn, không lệch lạc, nhất là vuông vức là điềm báo trước sẽ được hưởng vận số tốt lúc về già..
Nếu Thượng đỉnh nhọn hẹp hoặc khuyết hãm thì hay bị tai họa, khắc cha mẹ hoặc tính nết ti tiện. Trung đình ngắn hoặc bị lệch, hãm thường là kẻ bất nhân bất nghĩa, kiến thức nông cạn hẹp hòi, đồng thời cũng là dấu hiệu hậu vận hao tổn, lênh đênh. Hạ đình dài nhưng hẹp, hoặc nhọn, hay thiếu bề dày thì Điền trạch khiếm khuyết, tuổi già cực khổ.
Nếu Tam đình cân xứng thì có thể nói đây là tướng mạo của kẻ thượng đẳng. Cho nên tướng thư có nói: “Tam đình bình ổn, nhất sinh y thực vô khuy” nghĩa là ba phần của khuôn mặt mà được tương xứng đều hợp, không bị khuyết hãm thì cả đời không phải lo đến cơm áo..
Về mặt khả năng:
Một số tướng gia khác, nhất là những người thuộc học phái Nhật Bản không mấy chú trọng đến ý nghĩa vận mệnh của Tam đình mà chỉ căn cứ vào cốt tướng học để tìm khả năng con người. Theo nhận định của họ thì:
Thượng đình biểu tượng cho trí lực.
Trung đình biểu tượng cho khí lực.
Hạ đình biểu tượng cho hoạt lực.
Khi tiền não bộ của con người phát triển, óc làm việc nhiều nên Thượng đình nảy nở tạo ra vầng trán rộng và cao.
Khi trung não diệp phát triển rõ rệt và lấn át các bộ phận khác của não thì Trung đình nảy nở rõ rệt nhất. Sự tăng trưởng của trí tuệ nhường chỗ quyết định cho sự vận dụng của bắp thịt.
Ngược lại khi não bộ phát triển độc dị thì Hạ đình cũng phát triển quá mức và gây ra cảnh Hạ đình vừa dài vừa rộng lấn lướt các phần kia.
Nếu cả ba phần đều phát triển cân phân theo thuật ngữ “Tam đình bình ổn” thì con người sẽ quân bình về cả ba mặt trí lực, động lực và hoạt lực, con người sẽ có nhiều triển vọng thành công về bất cứ lĩnh vực gì trong việc mưu sinh hằng ngày. Do đó, cổ tướng học đã rất có lý khi nhận định rằng người có Tam đình bình ổn không phải khốn đốn vì cơm ăn áo mặc.
Theo nhà tướng học Tô Lãng Thiên, Thượng đình biểu thị vận tiên thiên. Trung đình giúp ta quan sát các trạng thái hoạt động hậu thiên. Còn Hạ đình giúp ta trắc định kết quả khả hữu của các hoạt động của con người (thành hay bại, xấu hay tốt…).
Tóm lại:
Thượng đình cho biết những dữ kiện thiên phú của con người như tri thức, nghệ thuật, cảm xúc, tinh thần… Nếu trán cao rộng, kẻ đó được hưởng sự may mắn tiên thiên, tức là khỏi phải nhọc công sáng tạo. Nếu trán lõm hoặc lệch, hãm là triệu chứng tiên thiên cho biết thời gian ấu thơ bị khốn quẫn về một hay nhiều lĩnh vực nào đó, phần trí lực kém.
Trung đình biểu thị cho sự phấn đấu của con người từ thuở thanh niên, có trí khôn đầy đủ tương đối. Phần đáng lưu ý nhất là mũi và Lưỡng quyền. Theo tác giả Tô Lãng Thiên, khu vực mũi và Lưỡng quyền, ngoài ý nghĩa tiền của, vật chất còn cho ta biết tài năng tháo vát của con người trong cuộc vật lộn để mưu sinh. Nếu Trung đình đầy đặn, cân xứng, mũi thẳng, chóp mũi tròn, hai cánh mũi có thế thì tuy Thiên đình bị lồi lõm, sơ vận lênh đênh cực khổ nhưng nhờ nỗ lực cá nhân bổ cứu mà cuối cùng trung vẫn có thể phấn chấn lên được.
Tóm lại khu vực Trung đình phát triển tốt đẹp có thể bổ sung cho khiếm khuyết trí tuệ tiên thiên. Nhờ sự quan sát khu vực Trung đình, ta đoán được phần nhận định đối với việc xoay xở định mệnh.
Hạ đình là kết quả tổng hợp của Thượng đình và Trung đình. Việc quan sát khu vực Hạ đình giúp ta có thể đoán được kết quả của việc vận dụng trí tuệ và nỗ lực cá nhân.
Hạ đình bao gồm Thực thương, Lộc thương, Pháp lệnh, Địa các và Nhân trung biểu thị sự cố gắng lúc tuổi già. Nói rõ hơn thì Lưỡng thương bao hàm sự thu nhập, cằm cho biết ảnh hưởng của sự sinh hoạt xã hội và tạo thành kết quả nơi cá nhân đó ra sao.
Trong lúc xem tướng phải nhìn toàn bộ khu vực Hạ đình để tìm sự nhất quán. Sự phong mãn phải nhất quán thì mới chắc chắn là phúc tướng. Nếu chỉ có hậu não bộ phát triển mà khu vực Hạ đình không tương xứng, thì đó chỉ là ước vọng của vật chất không bao giờ thực hiện được. Ngược lại, hậu não bộ không mấy phát triển mà Hạ đình sung mãn thì kết quả thực tiễn do nỗ lực cá nhân đem lại vượt quá ranh giới của tiên thiên và chứng tỏ sự thành công của cá nhân đó phần lớn là do nỗ lực mà có, sự may mắn hoặc giúp đỡ của thân nhân đối với hạn tướng này không đóng vai trò đáng kể.
Lục phủ trong tướng mặt
Lục phủ (6 phủ) là tên gọi dùng để chỉ ba cặp xương ở hai bên mặt.
Hai khu vực xương nổi cao ở hai bên phía trên ở dưới đuôi chân mày chạy lên sát chỗ chân tóc gọi là Thiên thường thượng phủ.
Cặp xương Lưỡng quyền thuộc khu vực Trung đình gọi là Quyền Cốt trung phủ.
Hai phần hai bên mang tai tiếp giáp với Lưỡng quyền và xuống phía dưới gọi Tai cốt hạ phủ, vì khu vực này thuộc về Hạ đình.
Lục phủ nói lên một cách khái quát về tài vận của con người. Một người Có Lục phủ đầy đặn thường là người rất giàu có, một Lục phủ tốt thì xương phải nảy nở đúng cách và cân xứng, thịt không lấn lướt xương. nhưng xương cũng không được quá nhiều đối với thịt, khí sắc phải sáng sủa, tươi mát. Lục phủ có nghĩa là cái kho chứa đồ vật của cải, nên dưới nhãn quan tướng học, Lục phủ cho ta biết một cách khái quát về tài vận. Sáu bộ phận đó có xương và thịt cân xứng, đầy đặn thì cũng giống như kho chứa tài sản, chỉ sự sung túc. Sách “Nhân luân đại thống phú” của Trương Hành Giản đã nói: “Nhất phủ tựu, thập tải phong phú” có nghĩa là một phủ đầy đặn thì giàu có.
Lục phủ cũng liên quan đến thời gian thụ hưởng. Thiên thương Thượng phủ sung mãn tươi tắn tượng trưng cho kẻ được hưởng của cải tiền nhân lưu lại hoặc được cha mẹ anh chị em chu cấp. Trung phủ hoàn mỹ, điển hình cho vận mệnh cá nhân lúc trung niên tự mình sáng tạo thành sự nghiệp gia sản. Hạ phủ sung mãn tươi tắn là điềm báo trước,
lúc già, sinh kế và gia tài phát triển khả quan.
Thượng phủ ứng với thiếu niên, Trung phủ ứng với trung niên và Hạ phủ ứng với vãn niên. Nếu Lục phủ khuyết hãm, hắc ám thì phải giải đoán ngược lại.