Về phương diện vận mệnh từ đời nhà Tống trở đi, các sách tướng Có lẽ chịu ảnh hưởng của khoa mạng số nên đã chia khuôn mặt thành 12 cung. Mỗi cung tượng trưng cho một lĩnh vực của vận mệnh phân phối như sau:
Cung Mệnh
Vị trí của nó là khu vực Ấn đường, thể hiện niềm khát vọng tiềm ẩn và ý chí thực hiện khát vọng đó.
Tuy nhiên trong phép xem tướng, một bộ vị không đủ để quyết đoán, nên phải dựa vào các bộ vị lân cận. Do đó tổng hợp các kiến giải Cổ nhân về cung Mệnh và bộ vị lân cận giúp ta biết được một số yếu tố sau đây:
Nếu Ấn đường tươi sáng thì kẻ đó có học vấn, tư chất thông tuệ.
Cùng với Ấn đường tươi sáng là cặp mắt sáng sủa, tròng trắng và tròng đen phân minh thì dễ giàu sang.
Ấn đường tươi sáng, khu vực trán cũng tốt trong thế phối hợp đặc cách dễ được phú quý song toàn. Ngược lại nếu Ấn đường và trán đều thấp, trũng thì kẻ đó khó tránh được cảnh nghèo khổ. Trán vừa có vằn không ra hình dạng nào, vừa hẹp lại thêm sợi mày khô vàng là tướng khắc vợ, phải sống xa nơi chôn rau cắt rốn.
Cung Quan lộc
Vị trí của cung Quan lộc nằm ngay ở trung tâm điểm của trán. Bộ vị này có biệt danh là Chính trung. Ý nghĩa chính của cung Quan lộc là cho phép phỏng đoán địa vị, chức nghiệp của cá nhân người đó trong xã hội.
Thời xưa, trong một xã hội quân chủ trong chức tước, người ta cho kẻ ra làm quan mới thật sự là kẻ có địa vị trong xã hội, nên được hưởng bổng lộc. Quan lộc là bổng lộc do địa vị xã hội đem lại. Những kẻ làm quan thời xưa phần đông đều Có Chính trung sáng sủa, đầy đặn và rộng.
Theo quan niệm trên, các sách tướng học Cổ điển như “Ma Y hướng pháp”, “Thủy Kính tập”, “Thần tượng toàn biên” đều nhất loạt cho rằng kẻ có Chính trung sáng sủa tốt đẹp phối hợp với toàn thể trán rộng rãi, Son căn cao rộng thì suốt đời làm quan không bao giờ bị rắc rối, trắc trở đến mức phải bị kiện cáo. Nếu khu vực Chính trung khuyết hãm, trán hẹp, nếp nhăn của trán hỗn loạn thì con đường Công danh, sự nghiệp thường hay bất trắc. Nếu mắt lại tự nhiên không vì bệnh tật mà có những tia máu lan khắp tròng trắng khiến người ngoài có cảm tưởng là mắt đỏ thì gần như chắc chắn là kẻ đó không chết thảm thì cũng bị tù đày vì khoan hoạn.
Mấy năm gần đây, chịu ảnh hưởng của Nhật Bản, một số tác giả đã tìm cách giải thích ý nghĩa của cung Quan lộc theo đường lối tâm lý học. Hai nhà tướng học đương thời là Tô Lăng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ căn cứ vào các tiến bộ của ngành cốt tướng học cho rằng phần Chính trung nảy nở là dấu hiệu bề ngoài của kẻ có tâm hồn thông minh, cao ngạo, thích có địa vị bằng cách nỗ lực chứng minh tài ba của mình cho mọi người thấy. Người đó dễ dàng thành công và thành danh trên đường mưu cầu công danh, nhất là thời xưa. Sự tuyển lựa quan lại dựa vào tài năng và đức độ thực sự của chính cá nhân đó như vua Nghiêu chọn ông Thuấn, vua Thuấn chọn ông Vũ vậy.
Phần trung ương của trán không đặc biệt nổi rõ và đẹp nhưng không bị thấp, lõm hoặc tì vết thì cũng có thể xếp vào loại cát tướng. Nếu như cung Quan lộc hẹp, thấp, có tì vết tự nhiên thì người đó không Có ý chí phấn đấu, lại bạc nhược nên khó có thể thành đạt được mộng Công danh. Do đó, CỔ tướng học đã có lý khi nói rằng Trung chính khuyết hãm thì Quan lộc chẳng ra gì.
Cung Tài bạch
Toàn thể các bộ vị của mũi đều được coi như là thuộc cung Tài bạch. Ý nghĩa chung của cung Tài bạch là tiền bạc và của cải. Theo quan niệm xưa, mũi tượng trưng cho Thổ tinh, mà Thổ là đất, nguồn gốc của tài nguyên nên mũi mới được xem là Tài bạch. Tuy vậy, điều này chỉ áp dụng cho nam giới mà thôi.
Đối với nữ giới, mũi là Phu tinh. Xem tướng mũi đàn bà, ngoài một số ý nghĩa khác, người ta còn có thể đoán biết được người chồng tương lai.
Cung Điền trạch
Việc xác định vị trí của cung Điền trạch hiện nay là có hai thuyết:
Thuyết thứ nhất
Các sách tướng cổ như: “Sử quảng hải”,” Ma Y tướng pháp”, “Thần tướng toàn biến”, “Thủy Kính tập” và gần đây là Tào Trấn Hải, tác giả cuốn “Mạng tướng giảng tọa”, cho rằng vị trí của cung Điền trạch là cặp mắt. Kẻ mắt mờ, khô và không có nhiều tia máu không mong gì có ruộng vườn hoặc có thừa kế được di sản thì cũng phá tán cho kỳ hết, về già tay không. Nếu cặp mắt đen láy, tròng đen, tròng trắng phân minh (ví dụ như mắt phượng), lông mày cao dễ có số được hưởng di sản hoặc dễ tậu ruộng vườn. Mắt lớn và lộ dễ khuynh gia bại sản.
Thuyết thứ hai
gebore Một số tác giả hiện tại như: Tô Lăng Thiên trong sách “Thuật xem tướng đồ giải” và Khuyết Nông Cư Sĩ trong sách “Quan nhân thuộc loại” cho rằng vị trí đích thực của cung Điền trạch là khoảng từ bờ trên cặp mắt tới bờ dưới của cặp chân mày. Sự tốt xấu của cung Điền trạch biến thiên cùng chiều với sự tốt xấu của khu vực kể trên. Kẻ có cung Điền trạch rộng rãi, sáng sủa có rất nhiều triển vọng được hưởng di sản của tiền nhân. Trái lại, khu vực của cung Điền trạch hẹp thì kẻ đó nếu có ruộng vườn là từ chính công sức của mình chứ không phải là nhờ phúc ấm hoặc ban tặng của người khác.
Riêng Kiến Nông Cư Sĩ còn viết thêm rằng khu vực cung Điền trạch còn cho ta biết được một phần cá tính con người nữa. Khu vực này cao rộng thì kẻ đó có tư tưởng bảo thủ, không ưa thích các sự thay đổi sâu rộng trong nếp sống hoặc tập quán. Khu vực này hẹp thì trái lại, nghĩa là kẻ đó tính nóng, thích tranh cãi, không ưa gò bó trong khuôn sáo Cổ truyền. Do đó, đại đa số những kẻ như vậy đều có tư tưởng cấp tiến, không câu nệ tiểu tiết.
Cung Huynh đệ
Vị trí đích thực của cung Huynh đệ là cặp lông mày. Ý nghĩa chính của cung này là sự tương quan gia vận giữa anh em. Ngoài ra, theo các sách cổ như: “Ma Y tướng pháp”, “Thủy Kính tập”… còn có thể đoán định được số anh em trai nữa.
Lông mày thanh nghĩa là sợi không lớn, không nhỏ, khoảng cách đúng tiêu chuẩn (xem phần lông mày) và dài hơn mắt thì anh em hòa thuận. Lông mày đẹp và mịn, tình nghĩa anh em đậm đà và thấm thía, lông mày giống mặt trăng non thì trong số anh em có người nổi tiếng với đời. Ngược lại, nếu lông mày thô, chiều dài quá ngắn là điềm anh em ly tán. Sợi lông mày thô mịn xen kẽ nhau hoặc đuôi lông mày phải – trái, cao – thấp, dài ngắn khác nhau là kẻ có anh trai dị nghị. Sợi lông mày ở hai đầu lông mày giao nhau, sắc vàng, thưa thớt và ngắn là số có anh em hoặc chính bản thân chết xa nhà. Sợi lông mày mọc ngược lên và xoắn nhau là số anh em bất hòa.
Riêng về quan điểm cho là căn cứ vào lông mày mà biết được số anh em trai, gái sẽ được soạn giả trình bày rõ hơn ở phần luận đoán lông mày (Tương quan giữa lông mày và gia vận).
Cung Tử tức
Vị trí của cung Tử tức là khu vực nằm ngay phía dưới mắt gọi là Lệ đường. Cách cấu tạo và màu sắc cho biết một cách khái quát về sự ràng buộc giữa đương sự và con cái thắm thiết hay lỏng lẻo, hậu vận của con cái triển vọng, có con hay tuyệt tự.
Về mặt liên hệ đến vận mệnh của con cái, nếu Lệ đường đầy đủ, tươi hồng thì con cái được thừa hưởng phúc lộc tự nhiên, Có cơ hội làm vinh hiển tổ tông. Trái lại Lệ đường mà sâu hõm, màu sắc thô sạm là biểu hiện con cái không ra gì, cha cọp sinh con chó. Nếu Lệ đường mà sâu hõm, khí sắc lại có các vết sẹo hoặc bị tật bẩm sinh là số tuyệt tự hoặc có con thì khi già cũng thành cô đơn.
Một vài tác giả cổ điển còn đi xa hơn nữa là phân biệt Lệ đường bên phải ứng với con gái, bên trái ứng với con trai, muốn biết một cách khá chính xác phải xem tướng luôn cả khu vực Lệ đường của người vợ nữa.
Cung Nô bộc
Vị trí đích thực của cung Nô bộc là khu vực Địa các, nhưng trong thực tế nó bao gồm phần lớn Hạ đình, từ khóe miệng xuống đến cằm. Ý nghĩa tổng quát của cung Nô bộc là sự hỗ trợ giữa cá nhân với các người quen biết hoặc giúp việc.
Khu vực Địa các đầy đặn cân xứng là số Có nhiều người quen biết có tài năng giúp đỡ. Đối với người khác, đương sự là kẻ có uy lực và có khả năng điều động mọi người. Khu vực Địa các lệch hãm, nhỏ, nhọn là kẻ có số hay bị tiểu nhân ghen ghét, kẻ giúp việc không hết lòng, Có giúp người tận tình thì trung cuộc cũng mang lấy oán trách. Nếu khu vực Địa các có vết hằn, nứt tự nhiên là số có kẻ giúp việc, hay thuộc cấp không ra gì, dễ dàng trở mặt đối với mình.
Cung Thê thiếp
Cung Thê thiếp ở về phía hai đuôi mắt, khu vực này có tên riêng là Gian môn. Cung Thê thiếp cho ta biết sơ qua về sự liên hệ vợ chồng, sự hạnh phúc trong vấn đề lứa đôi và tình duyên sớm hay muộn.
Gian môn đầy đặn và không bị các vạch ngang dọc làm thành khuyết hãm là kẻ thân thể khang kiện, tình dục mạnh mẽ, cho nên trong đời sống vợ chồng dễ có hạnh phúc vật chất.
Nếu bộ vị đó quá nảy nở, bất kể trai hay gái thì vì tình dục quá mạnh khiến kẻ phối ngẫu trung bình khó có thể thỏa mãn được nhu cầu tình dục. Trái lại khu vực Gian môn quá thấp hoặc hõm (tương đối so với sự béo hay gầy của toàn thể khuôn mặt) thì kẻ đó có tính dâm dục ngấm ngầm.
Cung Tật ách
Khu vực sống mũi thấp, lệch, dễ bị bệnh và nếu kiêm thêm cả các vết hằn tự nhiên thì có thể quanh năm bệnh tật liên miên, khó có thể trường thọ. Nếu tự nhiên khu vực cung Tật ách bị sạm đen thì đó là điềm báo trước bị trọng bệnh. Nếu các bộ vị quan trọng khác như Ấn đường, lông mày, cặp mắt đều ám đen thì có thể chết vì bạo bệnh trong tương lai gần.
Cung Thiên di
Vị trí của cung Thiên di ở hai bên phía trên của góc trán (trong thuật ngữ của thuật xem tướng, khu vực này được gọi là Dịch mã). Ý nghĩa chính của cung Thiên di là sự di chuyển, giao tiếp với người khác không phải là thân quyền của mình, tuy nói góc trán phía trên nhưng cả khu vực lân cận cũng đều được coi trọng. Nếu khu vực Dịch mã và kế phía dưới đó là Thiên thường đầy đặn, cân xứng và sáng sủa thì đi xa làm ăn có lợi, được người ngoài giúp đỡ. Nếu khu vực Ngư vĩ (đuôi mắt) tươi đẹp thì đến giờ vẫn có triển vọng ngao du xa nhà một cách hanh thông. Nếu khu vực Dịch mã lõm, lệch thì cả đời đi xa chỉ chuốc lấy thất bại, người ngoài hờ hững. Nếu bộ phận trán và Địa các lệch lạc, không cân xứng thì do Dịch mã bị mất cân bằng, nên kẻ đó suốt đời long đong, không yên ổn.
Cung Phúc đức
Hiện nay có hai thuyết trái ngược về cả vị trí lẫn ý nghĩa của cung Phúc đức.
Thuyết thứ nhất:
Các sách cổ điển về tướng học như: Ma Y thần tượng toàn biên, Thủy Kính tập và gần đây như Nghiên Nông Cư Sĩ trong sách Quan nhân tử vi, cung Phúc đúc nằm ở hai bên má chạy dài từ Thiên thường xuống đến tận cùng của khuôn mặt. Về ý nghĩa, cung Phúc đức cho phép dự đoán về công danh, phú quý (do các bộ vị khác thể hiện) có thể có nhiều xác suất thành tựu trong thực tế hay không.
Căn cứ vào kinh nghiệm của cổ nhân, nếu các cung khác tốt mà cung Phúc đức xấu thì sự thành tựu thực tế của cá nhân đó bị suy giảm hẳn hoặc mất đi. Ngược lại, nếu cung Phúc đức tốt, các cung kia xấu thì xấu đó có thể nguy hại rất nhiều. Cung Phúc đức đầy đặn, cân xứng (trong ý nghĩa là cả hai bên phải, trái không mất quân bình quá lớn), khí sắc tươi tắn thì chủ về phú quý dễ thành. Cằm tròn, trán hẹp, thuở thiếu niên gặp nhiều vất vả, trán rộng tốt mà cằm nhọn hẹp thì về già lận đận. Nếu các bộ vị chủ về các cung khác không mấy tốt đẹp, nhưng cũng không xấu lắm mà được mày cao, mắt sáng thì vận số bình thường. Trái lại, vẫn trường hợp trên mà chân lông mày ăn lan xuống tận bờ mắt, tai có luân quách đảo ngược vị trí mà không thuộc loại Hỏa hình nhân thì đối với kẻ đó chẳng nên đề cập đến chuyện Phúc đức làm gì vô ích.
Thuyết thứ hai:
Thuyết này mới được đưa ra trong mấy năm nay do hai nhà tướng học hiện tại là Tô Lăng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ chủ xướng. Theo hai vị trên, vị trí của cung Phúc đức nằm ở phía trên phần cuối của cặp lông mày, giới hạn phía dưới là chân mày, phía trên vào khoảng trên dưới một phần tay.
Ý nghĩa chính của nó là cho phép ta đoán được sự may rủi có tính cách bất định của tài vận (tùy theo sự thay đổi của cách cấu tạo và khí sắc của khu vực trên, thời gian dự đoán có thể lâu hay nhanh trước khi sự kiện xảy ra. Bộ phận kể trên có thịt, sắc thái thanh khiết được coi là điểm tốt cho việc mưu cầu tài lộc. Ngược lại, có thể nói kẻ đó ít hy vọng giàu có. Bộ phận chỉ vị trí cung Phúc đức bị vằn hoặc sẹo tự nhiên hoặc nốt ruồi thì phải giải thích là rủi ro nhiều hơn may mắn.
Cung Tướng mạo
Vị trí là toàn bộ khuôn mặt bao gồm tất cả mọi bộ vị, toàn thể các cung phối hợp lại. Về điểm này, cung Tướng mạo cho ta một khái niệm khái quát về những nét trội yếu nhất của một cá nhân và tùy theo điểm trội yếu đó liên quan tới cung nào trong số 11 cung kể trên, ta sẽ biết được chiều hướng chính về vận mệnh của kẻ đó sẽ đi về đâu và theo đuổi hoạt động nào thì khả dĩ có nhiều triển vọng thành tựu nhất. Nhưng ở đây xét riêng về mặt các cung chúng ta chỉ cần định sự phối hợp Tạm đình, Ngũ nhạc, Ngũ quan có cân xứng không mà thôi.
Riêng về phần Phụ mẫu, tướng học không xếp chung một cung. Muốn biết về cha mẹ, sách “Ma Y tướng pháp toàn thư khuyên ta nên quan sát phần Nhật và Nguyệt giác. Nhật giác là góc trán bên trái phía trên, Nguyệt giác là góc trán bên phải. Đôi khi người ta còn gọi Nhật giác là Tả giác, Nguyệt giác là Hữu giác.
Hai khu vực này cao nổi, sáng một cách thanh khiết tự nhiên thì cha mẹ trường thọ, khỏe mạnh. Ngược lại cha mẹ thường hay đau yếu (hoặc mất sớm nếu thấp hãm và có ám khí tự nhiên và kéo dài từ lúc sơ sinh). Nhật giác mà thấp hơn Nguyệt giác thì cha mất trước mẹ. Trường hợp ngược lại thì mẹ mất trước cha.
Ngoài hai vị giác ra cần phải quan sát cả vị thế cân xứng của hai lông mày nữa (vẫn theo nguyên tắc: lông mày trái chỉ cha, lông mày phải chỉ mẹ) cả hai cùng một chiều hướng ý nghĩa với hai giác, chỉ khi nào hai lông mày và hai khu vực Nhật và Nguyệt giác phù hợp nhau, sự dự đoán mới tạm gọi là chính xác trong phạm vi của cung Phụ mẫu. Hơn nữa, việc dự đoán cát hung của cha mẹ cũng phải đặt trong phạm vi tổng quát của cung Phúc đức và nhất là cung Tướng mạo.